Bảo tàng Nhân họchttps://ma.ussh.vnu.edu.vn/uploads/ma/logo-btnh_1.png
Thứ năm - 05/08/2021 08:29
Cập nhật ngày 05 tháng 6 năm 2019, bởi K. Kris Hirst, Nguồn: Hirst, K. Kris. "Post-Processual Archaeology - What is Culture in Archaeology Anyway?" ThoughtCo, Aug. 27, 2020, thoughtco.com/what-is-post-processual-archaeology-172230. https://www.thoughtco.com/what-is-post-processual-archaeology-172230 Lược dịch: Nguyễn Huy Nhâm-Bảo tàng Nhân học
Khảo cổ học hậu quá trình là một phong trào khoa học trong khoa học khảo cổ học diễn ra vào những năm 1980, và rõ ràng nó là một phản ứng quan trọng đối với những hạn chế của phong trào khảo cổ học quá trình trước đó, những năm 1960. Tóm lại, khảo cổ học quá trình (processual archaeology) đã sử dụng một cách nghiêm ngặt phương pháp khoa học để xác định các yếu tố môi trường đã ảnh hưởng đến các hành vi của con người trong quá khứ. Sau hai thập kỷ, nhiều nhà khảo cổ học đã thực hành khảo cổ học quá trình, hoặc được dạy nó trong những năm hình thành, đã nhận ra rằng khảo cổ học quá trình đã thất bại khi cố gắng giải thích sự biến đổi hành vi của con người trong quá khứ. Những người theo chủ nghĩa hậu quá trình (post-processualists) bác bỏ các lập luận xác định và các phương pháp thực chứng lôgic rằng nó quá hạn chế để bao gồm nhiều loại động cơ thúc đẩy của con người. Một phê phán triệt để (A Radical Critique) Đặc biệt nhất, "sự phê phán triệt để" (radical critique), với tư cách là chủ nghĩa hậu quá trình (post-processualism), là đặc trưng vào những năm 1980, đã bác bỏ sự tìm kiếm của những người theo chủ nghĩa thực chứng về các quy luật chung chi phối hành vi. Thay vào đó, họ gợi ý rằng các nhà khảo cổ học chú ý hơn đến các quan điểm biểu tượng, cấu trúc và chủ nghĩa Mác. Khảo cổ học hậu quá trình biểu tượng và khảo cổ học hậu quá trình cấu trúc chủ yếu ra đời ở Anh với học giả Ian Hodder: một số học giả như Zbigniew Kobylinski và các đồng nghiệp gọi nó là "trường phái Cambridge" (Cambridge school). Trong các văn bản như Biểu tượng trong hành động (Symbols in Action), Hodder lập luận rằng từ "văn hóa" (culture) đã gần như trở nên đáng xấu hổ đối với những người theo chủ nghĩa thực chứng (positivists), những người đã bỏ qua sự thật rằng mặc dù văn hóa vật chất (material culture) có thể phản ánh sự thích nghi với môi trường, nhưng nó cũng có thể phản ánh sự biến đổi xã hội. Lăng kính thích ứng, chức năng mà các nhà thực chứng sử dụng đã che mờ họ trước những điểm trống chói lọi trong nghiên cứu của họ. Những người theo chủ nghĩa hậu quá trình cho biết văn hóa không thể bị thu hẹp lại thành một tập hợp các lực lượng bên ngoài như sự thay đổi môi trường, thay vào đó, văn hóa hoạt động như một phản ứng hữu cơ đa dạng đối với thực tế hàng ngày. Những thực tại đó được tạo thành từ vô số các lực lượng chính trị, kinh tế và xã hội, hoặc ít nhất dường như là cụ thể đối với một nhóm cụ thể trong một thời điểm và hoàn cảnh cụ thể, và gần như không nơi nào có thể dự đoán được như các nhà quá trình học đã giả định. Biểu tượng và Chủ nghĩa biểu tượng (Symbols and Symbolism) Đồng thời, phong trào theo chủ nghĩa hậu quá trình chứng kiến sự nở rộ đáng kinh ngạc của những ý tưởng, một số ý tưởng trong số đó phù hợp với chủ nghĩa giải cấu trúc xã hội (social deconstruction), chủ nghĩa hậu hiện đại (post-modernism) và phát triển từ tình trạng bất ổn dân sự ở phương Tây trong chiến tranh Việt Nam. Một số nhà khảo cổ xem hồ sơ khảo cổ như một văn bản cần được giải mã. Những người khác tập trung vào mối quan tâm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ của quyền lực và sự thống trị, không chỉ trong hồ sơ khảo cổ học mà còn ở nhà khảo cổ học. Ai có thể kể câu chuyện quá khứ? Cơ bản của tất cả những điều đó cũng là một phong trào nhằm thách thức thẩm quyền của nhà khảo cổ học và tập trung vào việc xác định những thành kiến xuất phát từ việc tạo nên giới tính hoặc dân tộc của họ. Một trong những bước phát triển có lợi của phong trào là hướng tới việc tạo ra một ngành khảo cổ học toàn diện hơn, gia tăng số lượng các nhà khảo cổ bản địa trên thế giới, cũng như phụ nữ, cộng đồng LGBT, các cộng đồng địa phương và con cháu của các cộng đồng địa phương đó. Tất cả những điều này đã mang lại sự đa dạng của những cân nhắc mới vào một ngành khoa học vốn bị thống trị bởi những người đàn ông ngoại lai phương Tây da trắng, được đặc quyền. Phê phán lại những phê phán (Critiques of the Critique) Tuy nhiên, sự phóng khoáng tuyệt vời của các ý tưởng đã trở thành một vấn đề. Các nhà khảo cổ học người Mỹ Timothy Earle và Robert Preucel cho rằng khảo cổ học triệt để (radical archaeology), không tập trung vào phương pháp nghiên cứu sẽ chẳng đi đến đâu. Họ kêu gọi một phương pháp khảo cổ học hành vi mới (new behavioral archaeology), một phương pháp kết hợp phương pháp tiếp cận quá trình (processual approach) cam kết giải thích sự tiến hóa văn hóa (cultural evolution), nhưng với sự tập trung đổi mới vào cá nhân. Nhà khảo cổ học người Mỹ Alison Wylie nói rằng khảo cổ học hậu quá trình phải học cách kết hợp sự xuất sắc về phương pháp luận của các nhà khảo cổ học quá trình với tham vọng khám phá cách con người trong quá khứ gắn bó với văn hóa vật chất của họ. Và Randall McGuire người Mỹ đã cảnh báo lại rằng các nhà khảo cổ học hậu quá trình chọn các đoạn trích từ một loạt các lý thuyết xã hội mà không phát triển một lý thuyết chặt chẽ, nhất quán về mặt logic. Chi phí và lợi ích (The Costs and Benefits) Các vấn đề được bới ra trong thời kỳ đỉnh cao của phong trào hậu quá trình vẫn chưa được giải quyết, và ngày nay rất ít nhà khảo cổ tự coi mình là những người theo chủ nghĩa hậu quá trình. Tuy nhiên, một điểm phát triển vượt bậc là sự thừa nhận rằng khảo cổ học là một ngành học có thể sử dụng cách tiếp cận theo ngữ cảnh (contextual approach) dựa trên các nghiên cứu dân tộc học để phân tích các bộ hiện vật hoặc biểu tượng và tìm kiếm bằng chứng về các hệ thống tín ngưỡng. Các đối tượng có thể không chỉ đơn giản là tàn tích của hành vi, mà thay vào đó, chúng có thể có một biểu tượng quan trọng mà học ít nhất khảo cổ có thể phát huy tác dụng. Và thứ hai, sự nhấn mạnh vào tính khách quan, hay đúng hơn là sự thừa nhận tính chủ quan, vẫn chưa lắng xuống. Ngày nay các nhà khảo cổ vẫn suy nghĩ và giải thích tại sao họ lại chọn một phương pháp cụ thể; tạo ra nhiều bộ giả thuyết để đảm bảo rằng chúng không bị đánh lừa bởi một khuôn mẫu; và nếu có thể, hãy cố gắng tìm kiếm sự liên quan đến xã hội. Rốt cuộc, khoa học là gì nếu nó không áp dụng cho thế giới thực? Tài liệu tham khảo chọn lọc
Earle, Timothy K., et al. "Processual Archaeology and the Radical Critique [and Comments and Reply]." Current Anthropology 28.4 (1987): 501–38. Print.
Engelstad, Ericka. "Images of Power and Contradiction: Feminist Theory and Post-Processual Archaeology." Antiquity 65.248 (1991): 502-14. Print.
Fewster, Kathryn J. "The Potential of Analogy in Post-Processual Archaeologies: A Case Study from Basimane Ward, Serowe, Botswana." The Journal of the Royal Anthropological Institute 12.1 (2006): 61–87. Print.
Kobylinski, Zbigniew, Jose Luis Lanata, and Hugo Daniel Yacobaccio. "On Processual Archaeology and the Radical Critique." Current Anthropology 28.5 (1987): 680–82. Print.
Mizoguchi, Koji. "A Future of Archaeology." Antiquity 89.343 (2015): 12-22. Print.
Patterson, Thomas C. "History and the Post-Processual Archaeologies." Man 24.4 (1989): 555–66. Print.
Wylie, Alison. "The Reaction against Analogy." Advances in Archaeological Method and Theory 8 (1985): 63–111. Print.
Yoffee, Norman and Andrew Sherratt. "Archaeological Theory: Who Sets the Agenda?" Cambridge: Cambridge University Press, 1993.
Yu, Pei-Lin, Matthew Schmader, and James G. Enloe. "'I’m the Oldest New Archaeologist in Town': The Intellectual Evolution of Lewis R. Binford." Journal of Anthropological Archaeology 38 (2015): 2–7. Print.