Nhà khảo cổ học đang làm gì trong lĩnh vực nhân học?
Khảo cổ dân tộc học là một kỹ thuật nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng thông tin từ các nền văn hóa sống (living cultures) — dưới dạng dân tộc học (ethnology/ethnography), lích sử dân tộc học (ethnohistory) và khảo cổ học thực nghiệm (experimental archaeology) — để hiểu các mẫu hoa văn được tìm thấy tại một địa điểm khảo cổ. Một nhà Khảo cổ dân tộc học thu thập bằng chứng về các hoạt động đang diễn ra trong bất kỳ xã hội nào và sử dụng các nghiên cứu đó để mô tả sự tương đồng của những hành vi thời hiện đại nhằm giải thích và hiểu rõ hơn về các mẫu hoa văn được thấy trong các địa điểm khảo cổ.
Nhà khảo cổ học người Mỹ Susan Kent đã định nghĩa mục đích của khảo cổ dân tộc học là "xây dựng và kiểm tra các phương pháp, giả thuyết, mô hình và lý thuyết có định hướng và / hoặc có nguồn gốc khảo cổ học với dữ liệu dân tộc học." Nhưng chính nhà khảo cổ học Lewis Binford đã viết rõ ràng nhất: Khảo cổ dân tộc học là một "viên đá Rosetta: một cách phiên dịch các vật chất tĩnh được tìm thấy trên một địa điểm khảo cổ thành cuộc sống sôi động của một nhóm người trên thực tế đã bỏ lại chúng ở đó."
Khảo cổ dân tộc học Thực hành
Khảo cổ dân tộc học thường được tiến hành bằng cách sử dụng các phương pháp nhân học văn hóa như “quan sát tham gia” (participant observation), nhưng nó cũng tìm thấy dữ liệu hành vi trong các báo cáo dân tộc học và lịch sử dân tộc học cũng như lịch sử truyền miệng. Yêu cầu cơ bản là dựa trên bất kỳ bằng chứng chắc chắn nào để mô tả các hiện vật và tương tác của chúng với con người trong các hoạt động.
Dữ liệu dân tộc học có thể được tìm thấy trong các mô tả bằng văn bản đã hoặc chưa được xuất bản (tài liệu lưu trữ, ghi chép thực địa, v.v.); ảnh chụp; lịch sử truyền miệng; bộ sưu tập hiện vật công hoặc tư nhân; và tất nhiên, từ những quan sát có chủ ý thực hiện cho mục đích khảo cổ học về một xã hội sống. Nhà khảo cổ học người Mỹ Patty Jo Watson cho rằng khảo cổ dân tộc học cũng nên bao gồm khảo cổ thực nghiệm (experimental archaeology). Trong khảo cổ học thực nghiệm, nhà khảo cổ tạo ra tình huống để được quan sát thay vì đưa nó đến nơi mà họ tìm thấy: các quan sát vẫn được thực hiện từ các biến số liên quan đến khảo cổ học trong một bối cảnh sống cụ thể.
Hướng tới một khảo cổ học phong phú hơn
Khả năng Khảo cổ dân tộc học mang lại vô số ý tưởng về những gì các nhà khảo cổ có thể nói về các hành vi được thể hiện trong hồ sơ khảo cổ: và một thực tế tương ứng về khả năng của các nhà khảo cổ học để nhận ra tất cả hoặc thậm chí bất kỳ hành vi xã hội nào diễn ra trong một nền văn hoá cổ đại. Những hành vi đó phải được phản ánh trong văn hóa vật chất (Tôi làm ra cái nồi bằng cách này bởi vì mẹ của tôi tạo ra nó bằng cách này; Tôi đã đi 50 dặm để lấy loại cỏ này vì đó là nơi chúng tôi vẫn luôn đi). Nhưng sự thực cơ bản đó chỉ có thể được xác định từ phấn hoa và các mảng gốm vỡ nếu các kỹ thuật cho phép nắm bắt và diễn giải cẩn thận phù hợp với hoàn cảnh.
Nhà khảo cổ học Nicholas David đã mô tả vấn đề khá rõ ràng: khảo cổ dân tộc học là một nỗ lực nhằm vượt qua ranh giới giữa trật tự lý tưởng (những ý tưởng khó quan sát, giá trị, chuẩn mực không thể quan sát được và sự thể hiện của trí tuệ con người) và thứ tự hiện tượng (các hiện vật, những thứ bị ảnh hưởng bởi hành động của con người và phân biệt bởi vật chất, hình thức và ngữ cảnh).
Các cuộc tranh luận về quá trình và hậu quá trình
Nghiên cứu Khảo cổ dân tộc học đã làm mới nghiên cứu khảo cổ học khi khoa học bước vào thời đại khoa học sau Thế chiến thứ hai. Thay vì chỉ đơn giản là tìm ra những cách tốt hơn để đo đạc, tìm kiếm nguồn và kiểm tra các hiện vật (hay còn gọi là khảo cổ quá trình/ processual archaeology), các nhà khảo cổ học cảm thấy giờ đây họ có thể đưa ra giả thuyết về các loại hành vi mà các hiện vật đó biểu hiện (hay còn gọi là khảo cổ học sau quá trình/post-processual archaeology). Cuộc tranh luận đó đã phân cực giới chuyên môn trong phần lớn những năm 1970 và 1980: và rõ ràng là trận đấu không đầy đủ khi các cuộc tranh luận kết thúc.
Có một điều, khảo cổ học với tư cách là một nghiên cứu
lịch đại (diachronic) — một địa điểm khảo cổ đơn lẻ luôn bao gồm bằng chứng về tất cả các sự kiện và hành vi văn hóa có thể đã diễn ra tại địa điểm đó trong hàng trăm hoặc hàng nghìn năm, chưa kể đến những điều tự nhiên đã xảy ra với nó trong thời gian đó. Ngược lại, dân tộc học có tính
đồng đại (synchronic)- những gì đang được nghiên cứu là những gì xảy ra trong quá trình nghiên cứu. Và luôn có sự không chắc chắn tiềm ẩn này: liệu các kiểu hành vi được thấy trong các nền văn hóa hiện đại (hoặc lịch sử) có thực sự được khái quát hóa cho các nền văn hóa khảo cổ cổ đại hay không, và bao nhiêu?
Lịch sử của ngành Dân tộc học
Dữ liệu dân tộc học đã được một số nhà khảo cổ học cuối thế kỷ 19/đầu thế kỷ 20 sử dụng để tìm hiểu các địa điểm khảo cổ (Edgar Lee Hewett ghi nhớ), nhưng nghiên cứu hiện đại bắt nguồn từ sự bùng nổ sau chiến tranh, những năm 1950 và 60. Bắt đầu từ những năm 1970, các tài liệu nghiên cứu phát triển mạnh mẽ khám phá những tiềm năng của phương pháp này (cuộc tranh luận về Quá trình/Hậu quá trình thúc đẩy phần lớn điều đó). Có một số bằng chứng, dựa trên sự giảm số lượng các lớp học và chương trình đại học, rằng khảo cổ dân tộc học, mặc dù là một phương pháp thực hành được chấp nhận và có lẽ là tiêu chuẩn cho hầu hết các nghiên cứu khảo cổ học vào cuối thế kỷ 20, nhưng tầm quan trọng trong của nó đang mờ nhạt trong thế kỷ 21.
Phê bình hiện đại
Kể từ những hoạt động đầu tiên của nó, khảo cổ dân tộc học thường bị chỉ trích vì một số vấn đề, chủ yếu là vì những giả định cơ bản về mức độ các hoạt động của một xã hội sống có thể phản ánh về một quá khứ xa xưa. Gần đây, các học giả như nhà khảo cổ Olivier Gosselain và Jerimy Cunningham đã lập luận rằng các học giả phương Tây bị che mờ bởi những giả định về các nền văn hóa sống. Đặc biệt, Gosselain lập luận rằng khảo cổ dân tộc học không áp dụng cho thời tiền sử vì nó không được thực hành như dân tộc học - nói cách khác, bạn không thể đơn giản thu thập dữ liệu kỹ thuật để áp dụng đúng các khuôn mẫu văn hóa có nguồn gốc từ những người vẫn còn sống.
Nhưng Gosselain cũng lập luận rằng việc thực hiện một nghiên cứu dân tộc học đầy đủ sẽ không phải là việc sử dụng thời gian hữu ích, vì đánh đồng các xã hội ngày nay sẽ không bao giờ đủ áp dụng cho quá khứ. Ông cũng nói thêm rằng mặc dù Khảo cổ dân tộc học có thể không còn là một cách hợp lý để tiến hành nghiên cứu, nhưng lợi ích chính của nghiên cứu là thu thập được một lượng lớn dữ liệu về kỹ thuật sản xuất và phương pháp luận, có thể được sử dụng như một bộ sưu tập tham khảo cho học thuật.
Nguồn tham khảo lựa chọn
- Cunningham, Jerimy J., and Kevin M. McGeough. "The Perils of Ethnographic Analogy. Parallel Logics in Ethnoarchaeology and Victorian Bible Customs Books." Archaeological Dialogues 25.2 (2018): 161–89. Print.
- González-Urquijo, J., S. Beyries, and J. J. Ibáñez. "Ethnoarchaeology and Functional Analysis." Use-Wear and Residue Analysis in Archaeology. Eds. Marreiros, João Manuel, Juan F. Gibaja Bao and Nuno Ferreira Bicho. Manuals in Archaeological Method, Theory and Technique: Springer International Publishing, 2015. 27–40. Print.
- Gosselain, Olivier P. "To Hell with Ethnoarchaeology!" Archaeological Dialogues 23.2 (2016): 215–28. Print.
- Kamp, Kathryn, and John Whittaker. "Editorial Reflections: Teaching Science with Ethnoarchaeology and Experimental Archaeology." Ethnoarchaeology 6.2 (2014): 79–80. Print.
- Parker, Bradley J. "Bread Ovens, Social Networks and Gendered Space: An Ethnoarchaeological Study of Tandir Ovens in Southeastern Anatolia." American Antiquity 76.4 (2011): 603–27. Print.
- Politis, Gustavo. "Reflections on Contemporary Ethnoarchaeology." Pyrenae 46 (2015). Print.
- Schiffer, Michael Brian. "Contributions of Ethnoarchaeology." The Archaeology of Science. Vol. 9. Manuals in Archaeological Method, Theory and Technique: Springer International Publishing, 2013. 53–63. Print.