Bảo tàng Nhân họchttps://ma.ussh.vnu.edu.vn/uploads/ma/logo-btnh_1.png
Thứ năm - 28/10/2021 08:32
Ai đã phát minh ra tơ lụa và nó có thực sự liên quan đến con tằm không? Cập nhật ngày 31 tháng 8 năm 2019, bởi K. Kris Hirst. Nguồn: Hirst, K. Kris. "Silkworms (Bombyx spp) - The History of Silk Making and Silkworms." ThoughtCo, Sep. 8, 2021, thoughtco.com/silkworms-bombyx-domestication-170667. https://www.thoughtco.com/silkworms-bombyx-domestication-170667 Lược dịch: Nguyễn Huy Nhâm-Bảo tàng Nhân học
Tằm/Silkworms (viết sai chính tả là silk worms) là dạng ấu trùng của loài bướm tằm đã được thuần hóa, Bombyx mori. Loài bướm tằm được thuần hóa trong môi trường sống tự nhiên của nó ở phía bắc Trung Quốc từ người anh em họ hoang dã của nó là Bombyx mandarina, một người anh em họ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Bằng chứng khảo cổ cho thấy điều đó xảy ra vào khoảng năm 3500 trước Công nguyên. Loại vải mà chúng ta gọi là tơ tằm được làm từ những sợi dài mỏng do tằm tạo ra trong giai đoạn ấu trùng. Mục đích của loài côn trùng này là tạo ra một cái kén bảo vệ để biến nó thành dạng bướm đêm. Những người thợ nuôi tằm chỉ đơn giản là gỡ kén, mỗi kén tạo ra sợi tơ mịn và rất bền từ 325–1.000 feet (100–300 mét). Người ta ngày nay làm vải từ sợi của ít nhất 25 loài bướm và bướm đêm hoang dã và thuần hóa khác nhau thuộc bộ Lepidoptera. Hai phiên bản của loài tằm hoang dã được các nhà sản xuất tơ lụa ngày nay khai thác là B. mandarina ở Trung Quốc và vùng viễn đông nước Nga; và một ở Nhật Bản và miền nam Hàn Quốc được gọi là Japanese B. mandarina. Ngành công nghiệp tơ lụa lớn nhất hiện nay là ở Ấn Độ, tiếp theo là Trung Quốc và Nhật Bản và hơn 1.000 giống tằm lai được lưu giữ trên toàn thế giới ngày nay.
Silk là gì? Sợi tơ là những sợi không hòa tan trong nước mà động vật (chủ yếu là ấu trùng của bướm đêm và bướm thường, nhưng cũng có thể là nhện) tiết ra từ các tuyến chuyên biệt. Động vật tích trữ các chất hóa học fibroin (tơ huyết) và sericin (protein hình thành trên bề mặt các sợi tơ thô) như gel trong tuyến của côn trùng - nghề nuôi tằm thường được gọi là nghề trồng dâu nuôi tằm. Khi gel được bài tiết, chúng sẽ được chuyển thành sợi. Nhện và ít nhất 18 bộ côn trùng khác nhau tạo ra tơ. Một số sử dụng chúng để xây tổ và đào hang, nhưng bướm và bướm đêm sử dụng chất bài tiết để tạo kén. Hoạt động đó đã bắt đầu cách đây ít nhất 250 triệu năm. Sâu bướm chỉ ăn lá của một số loài dâu tằm (Morus), có chứa mủ với hàm lượng đường ancaloit rất cao. Những loại đường này độc đối với sâu bướm và động vật ăn cỏ khác; tằm đã tiến hóa để chịu đựng những chất độc đó. Lịch sử thuần hóa Tằm ngày nay hoàn toàn phụ thuộc vào con người để sinh tồn, một kết quả trực tiếp của quá trình chọn lọc nhân tạo. Các đặc điểm khác được lai tạo thành sâu tằm thuần dưỡng là khả năng chịu đựng sự gần gũi và xử lý của con người cũng như sự đông đúc quá mức. Bằng chứng khảo cổ học chỉ ra rằng việc sử dụng kén của loài tằm Bombyx để sản xuất vải đã bắt đầu ít nhất là vào giai đoạn văn hóa Long Sơn (3500–2000 TCN) và có lẽ sớm hơn thế. Bằng chứng về lụa từ thời kỳ này được biết đến từ một số mảnh vải dệt còn sót lại được thu được từ các ngôi mộ được bảo quản tốt. Các ghi chép lịch sử của Trung Quốc như Sử ký (Shi Ji) cho biết việc sản xuất lụa và mô tả hàng may mặc. Bằng chứng khảo cổ học Triều đại Tây Chu (thế kỷ 11 - 8 trước Công nguyên) đã chứng kiến sự phát triển của các loại thổ cẩm lụa sớm. Nhiều bằng chứng về dệt lụa đã được phục hồi từ các cuộc khai quật khảo cổ học ở các địa điểm Mã Sơn (Mashan) và Bảo Sơn (Baoshan), có niên đại vào thời Chu (thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên) của thời Chiến quốc sau này. Các sản phẩm tơ tằm và công nghệ nuôi tằm đóng một vai trò quan trọng trong mạng lưới thương mại của Trung Quốc và trong sự tương tác văn hóa giữa các quốc gia khác nhau. Vào thời nhà Hán (năm 206 trước Công nguyên – 9 sau Công nguyên), việc sản xuất tơ lụa đóng vai trò quan trọng đối với thương mại quốc tế đến nỗi những con đường mòn của thương buôn đi bằng lạc đà được sử dụng để nối Trường An với châu Âu được đặt tên là Con đường Tơ lụa . Công nghệ nuôi tằm truyền bá sang Hàn Quốc và Nhật Bản khoảng 200 năm trước Công nguyên. Châu Âu đã được giới thiệu với các sản phẩm tơ lụa thông qua mạng lưới Con đường Tơ lụa, nhưng bí mật của việc sản xuất sợi tơ tằm vẫn chưa được biết đến bên ngoài Đông Á cho đến thế kỷ thứ 3 sau CN. Truyền thuyết kể rằng cô dâu của một vị vua của ốc đảo Khotan ở vùng viễn tây Trung Quốc cùng với chồng của cô trên Con đường Tơ lụa đã mang lén tằm và hạt giống dâu tằm về nhà. Đến thế kỷ thứ 6, Khotan đã phát triển mạnh kinh doanh sản xuất tơ lụa. Côn trùng được tôn kính như thần thánh Ngoài câu chuyện về nàng dâu, còn có vô số huyền thoại gắn liền với nghề chăn tằm và dệt vải. Ví dụ, một nghiên cứu về các nghi lễ vào thế kỷ thứ 7 CN ở Nara, Nhật Bản của học giả đạo Shinto, Michael Como đã phát hiện ra rằng dệt lụa gắn liền với vương quyền và sự lãng mạn lịch sự. Các truyền thuyết dường như đã ra đời ở Trung Quốc đại lục, và có khả năng liên quan đến vòng đời của con tằm, trong đó nó thể hiện khả năng chết và tái sinh thành một hình dạng hoàn toàn khác. Lịch nghi lễ tại Nara bao gồm các lễ hội gắn liền với các vị thần được gọi là Weaver Maiden và các nữ thần, pháp sư và nữ thần bất tử khác được thể hiện như những thiếu nữ dệt vải. Vào thế kỷ thứ 8 CN, một điềm báo kỳ diệu được cho là đã xảy ra, một chiếc kén tằm với một thông điệp - 16 ký tự nạm ngọc - được dệt trên bề mặt của nó, tiên tri về cuộc sống lâu dài cho hoàng hậu và hòa bình trong vương quốc. Trong bảo tàng Nara, một vị thần nhân từ hiện thân dưới dạng bướm đêm được minh họa là một người có công đuổi ma quỷ, bệnh dịch vào thế kỷ 12 CN.
Giải trình tự gen của con tằm Một dự thảo trình tự bộ gen cho tằm được công bố vào năm 2004 và ít nhất ba trình tự được thực hiện sau đó, phát hiện ra bằng chứng di truyền cho thấy tằm thuần hóa đã mất từ 33–49% độ đa dạng nucleotide so với tằm hoang dã. Loài côn trùng này có 28 nhiễm sắc thể, 18.510 gen và hơn 1.000 dấu hiệu di truyền. Bombyx có kích thước bộ gen ước tính 432 Mb, lớn hơn nhiều so với ruồi giấm, điều này khiến loài tằm trở thành một nghiên cứu lý tưởng cho các nhà di truyền học, đặc biệt là những người quan tâm đến bộ côn trùng Lepidoptera. Lepidoptera bao gồm một số loài côn trùng gây hại nông nghiệp nhất trên hành tinh của chúng ta và các nhà di truyền học hy vọng sẽ tìm hiểu về trình tự để hiểu và chống lại tác động của những người anh em họ hàng nguy hiểm của tằm. Năm 2009, một cơ sở dữ liệu truy cập mở về sinh học gen của tằm có tên SilkDB đã được xuất bản. Nghiên cứu di truyền Các nhà di truyền học Trung Quốc Shao-Yu Yang và các đồng nghiệp (2014) đã tìm thấy bằng chứng DNA cho thấy quá trình thuần hóa tằm có thể đã bắt đầu từ 7.500 năm trước và tiếp tục cho đến khoảng 4.000 năm trước. Vào thời điểm đó, tằm gặp phải tình trạng tắc nghẽn, mất đi nhiều sự đa dạng về nucleotide. Các bằng chứng khảo cổ học hiện không ủng hộ lịch sử thuần hóa lâu đời như vậy, nhưng niên đại tắc nghẽn tương tự như niên đại được đề xuất để thuần hóa ban đầu các loại cây lương thực. Một nhóm các nhà di truyền học Trung Quốc khác (Hui Xiang và cộng sự 2013) đã xác định được sự mở rộng quần thể tằm vào khoảng 1.000 năm trước, vào thời nhà Tống của Trung Quốc (960–1279 CN). Các nhà nghiên cứu cho rằng điều đó có thể gắn liền với cuộc Cách mạng Xanh trong nông nghiệp của triều đại nhà Tống, trước các thí nghiệm của Norman Borlaug 950 năm. Nguồn tham khảo
Bender, Ross. "Changing the Calendar Royal Political Theology and the Suppression of the Tachibana Naramaro Conspiracy of 757." Japanese Journal of Religious Studies 37.2 (2010): 223–45.
Como, Michael. "Silkworms and Consorts in Nara Japan." Asian Folklore Studies 64.1 (2005): 111–31. Print.
Deng H, Zhang J, Li Y, Zheng S, Liu L, Huang L, Xu W-H, Palli SR, and Feng Q. 2012. POU and Abd-A proteins regulate the transcription of pupal genes during metamorphosis of the silkworm, Bombyx mori. Proceedings of the National Academy of Sciences 109(31):12598-12603.
Duan J, Li R, Cheng D, Fan W, Zha X, Cheng T, Wu Y, Wang J, Mita K, Xiang Z et al. 2010. SilkDB v2.0: a platform for silkworm (Bombyx mori) genome biology. Nucleic Acids Research 38 (Database Issue): D453-456.
Russell E. 2017. Spinning their way into history: Silkworms, mulberries and manufacturing landscapes in China. Global Environment 10(1):21-53.
Sun W, Yu H, Shen Y, Banno Y, Xiang Z, and Zhang Z. 2012. Phylogeny and evolutionary history of the silkworm. Science China Life Sciences 55(6):483-496.
Xiang H, Li X, Dai F, Xu X, Tan A, Chen L, Zhang G, Ding Y, Li Q, Lian J et al. 2013. Comparative methylomics between domesticated and wild silkworms implies possible epigenetic influences on silkworm domestication. BMC Genomics 14(1):646.
Xiong Z. 2014. The Hepu Han tombs and the maritime Silk Road of the Han Dynasty. Antiquity 88(342):1229-1243.
Yang S-Y, Han M-J, Kang L-F, Li Z-W, Shen Y-H, and Zhang Z. 2014. Demographic history and gene flow during silkworm domestication. BMC Evolutionary Biology 14(1):185.
Zhu, Ya-Nan, et al. "Artificial Selection on Storage Protein 1 Possibly Contributes to Increase of Hatchability During Silkworm Domestication." PLOS Genetics 15.1 (2019): e1007616. Print.