Chuông Nhật Tảo

Chủ nhật - 31/10/2021 16:08
Chuông Nhật Tảo
Tên gọi: Chuông Nhật Tảo
Quyết định công nhận bảo vật: Số 88/QĐ-TTg ngày 15/01/2020
Hiện đang được lưu giữ tại: Đình Nhật Tảo, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Phát hiện: Quả chuông vốn là hiện vật của di tích đình làng Nhật Tảo. Những năm 1951-1953, thực dân Pháp chiếm đình Nhật Tảo làm bốt đóng quân, chúng cho xây 4 lô cốt ở 4 góc đình, vì vậy dân làng phải đưa toàn bộ đồ thờ tự và đồ tế khí của đình về Văn Chỉ của làng (trong đó có quả chuông). Năm 1994, dân làng tổ chức rước toàn bộ đồ thờ tự và tế khí trở lại đình. Tháng 3 năm 1995, khi làm hồ sơ xếp hạng di tích thì phát hiện ra quả chuông cổ này.
 Niên đại: Thế kỷ X
Kích thước: cao 32cm, đường kính miệng 19cm, cao quai chuông 7cm, trọng lượng 6000gram.
Hiện trạng: Còn nguyên vẹn
 
Chuông Nhật Tảo
Đình Nhật Tảo do các họa sinh ngành mỹ thuật chụp năm 1958.
Chuông được đúc theo lối thượng thu hạ thách (trên thon, dưới nở). Quai chuông đúc nổi đôi thú (giống như Ly Thủ) đấu lưng vào nhau, uốn cong tạo thành núm treo chuông. Thú có đầu to, mắt lồi, hai sừng thẳng, bờm ôm sát đầu, thân có vảy, hai chân và miệng ngậm tỳ xuống đỉnh chuông tạo thế vững chắc cho quai chuông. Chỏm quai tạo hình núm tròn dẹt nhô lên nhưng không phải là hồ lô như trên các quai chuông sau này. Đỉnh chuông bằng, vai xuôi, thân hình trụ, miệng loe có gờ, thành chuông dày.
Quai chuông Nhật Tảo
Thân chuông được phân cách bởi 5 đường đúc nổi ngang dọc, tạo thành 8 ô, phần trên là 4 ô hình thang đứng, phần dưới là 4 ô hình chữ nhật. Nằm giữa 5 đường đúc nổi nêu trên là 4 núm gõ (để đánh chuông), núm tròn, tạo hình bông hoa nở, xung quanh có 12 cánh hoa.
Phần trên của mặt ngoài chuông khắc chìm chữ Hán, theo lối chữ chân, còn khá rõ, phủ kín cả 4 ô hình thang và khoảng trống giữa những đường đúc dọc (gồm 27 cột, 211 chữ).
Minh văn trên chuông
Theo nghiên cứu của giáo sư Hà Văn Tấn, bài minh văn chữ Hán khắc trên thân chuông là nguồn sử liệu chữ viết sớm nhất về thế kỷ X, thời kỳ đầu tự chủ mà "chúng ta biết rất ít".
Bài minh văn khắc ngày 29 tháng Tư năm Mậu Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ 6 (tức năm 948). Càn Hòa là hiệu của Lưu Thạnh, vua Nam Hán, một nước thời Ngũ đại thập quốc đóng đô ở Quảng Châu (Trung Quốc). Tuy vậy, địa danh "thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ" trên thân chuông xác nhận đây là quả chuông của người Việt. "Niên hiệu Càn Hòa thứ 6" tức năm 948, thời điểm mà Dương Tam Kha đã chiếm ngôi nhà Ngô, tự xưng là Bình Vương được bốn năm. Nội dung minh văn nhắc đến Giáp Thìn 944, năm Ngô Quyền qua đời. Ông đã giành được nền độc lập, xưng vương nhưng vẫn chưa có niên hiệu và tình trạng ấy kéo dài suốt cả thời Ngô. Các văn bản thời đó, ghi năm tháng đều phải dùng niên hiệu của Nam Hán, dù đạo quân xâm lược này đã bị Ngô Quyền đánh tan tác trên sông Bạch Đằng năm 938.
Theo các nhà nghiên cứu, tên “Từ Liêm” đã xuất hiện từ sớm. Sách “Nguyên Hòa quận chí” còn nhắc đến sông Từ Liêm. Theo sách “Cựu Đường thư”, năm 621, đã tách một phần huyện Giao Chỉ, lập huyện Từ Liêm, nhưng sau đó thì bỏ, nhập vào huyện Giao Chỉ. Nhưng rõ ràng là “thôn Hạ Từ Liêm” là ở trong huyện Từ Liêm thời thuộc Đường và quả chuông Nhật Tảo này, bài minh cũng nhắc tới huyện Từ Liêm. Như vậy, có thể thấy rằng, hiện tại, quả chuông không ở quá xa “thôn Hạ Từ Liêm” được viết trong bài minh. Đồng thời, cũng qua đây, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn có sự tồn tại của đơn vị hành chính “thôn” ở nước ta rất sớm, từ thế kỷ X.
Bên cạnh đó, nội dung bài minh chuông Nhật Tảo còn đề cập đến công việc của một tổ chức tôn giáo thời bấy giờ gọi là “xã”. Trên chuông Thanh Mai (thế kỷ thứ VIII, 798) cũng xuất hiện tên gọi một “xã” là “Tùy Hỉ xã”, xã trên chuông Nhật Tảo thì không ghi rõ tên. Có nhiều chức danh giống nhau giữa hai chuông như: “xã chủ, xã phó, xã phán quan, xã lục sự”. Cũng có những chức danh chỉ thấy trên chuông Thanh Mai, không thấy trên chuông Nhật Tảo, như: “xã Chi Khiển, xã Bình Chính, xã Khổng Mục…” Điều khác nhau quan trọng là “xã” trên chuông Thanh Mai là một “xã Phật giáo”, còn “xã” trên chuông Nhật Tảo là một “xã Đạo giáo”. Tất cả những người trong xã này đều coi là “đệ tử của Vô pháp môn”. Tên của những người trong “xã” không phải là tên húy, mà chỉ là đạo hiệu hay pháp danh. Bài minh trên quả chuông Nhật Tảo đã cho chúng ta biết rõ hơn về Đạo giáo trong thế kỷ X và sự sự song hành, hỗn dung giữa Đạo giáo và Phật giáo.
Chuông Nhật Tảo là cổ vật độc bản, được xem là quả chuông duy nhất ở Thế kỷ X được phát hiện cho đến nay ở Việt Nam. Bài minh trên chuông có thể coi là một trong những sử liệu chữ viết sớm nhất của thời kỳ tự chủ trong lịch sử dân tộc được biết cho đến nay. Chuông có hình dáng độc đáo, khác biệt so với các chuông chùa đã biết. Họa tiết trang trí trên chuông thể hiện đỉnh cao của của nghệ thuật điêu khắc và kỹ thuật đúc đồng thời bấy giờ. Minh văn trên chuông là nguồn sử liệu cho việc tìm hiểu xã hội người Việt thời tự chủ, giúp nghiên cứu lịch sử làng xã, tôn giáo của người Việt thế kỷ X. Đây là hiện vật đầu tiên và duy nhất được biết cho đến nay thể hiện mối quan hệ song hành giữa Đạo giáo và Phật giáo, làm cơ sở cho việc hình thành tư tưởng Đạo - Phật - Nho cùng đồng hành trong đời sống tâm linh của người Việt thời Lý - Trần.
Lâm Anh sưu tầm và biên soạn
Nguồn
Phương Lam, Bảo vật ẩn mình nghìn năm, https://vnexpress.net/bao-vat-an-minh-nghin-nam-4098978.html

Tình Lê, Vì sao chuông Nhật Tảo được coi là bảo vật quốc gia?, https://vietnamnet.vn/vn/thong-tin-unesco/di-san/vi-sao-chuong-nhat-tao-duoc-coi-la-bao-vat-quoc-gia-616000.html

Thế Dương, Bảo vật làng Nhật Tảo, https://dangcongsan.vn/anh/bao-vat-lang-nhat-tao-559701.html
Thuý Hà, Chuông Nhật Tảo, Cục Di sản Văn hoá, http://dsvh.gov.vn/chuong-nhat-tao-3213

Thiện Minh, Chuông Nhật Tảo - Bảo vật vô giá 1000 năm lịch sử, https://phatgiao.org.vn/chuong-nhat-tao--bao-vat-vo-gia-1000-nam-lich-su-d49110.html

 

 

 

 


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây